On one occasion the Blessed One was staying among the Sakyans at Kapilavatthu in the Banyan Park.
Then, after having dismissed the community of monks over a particular incident, he early in the morning put on his robes and, carrying his bowl and outer robe, went into Kapilavatthu for alms.
After having gone for alms in Kapilavatthu, after his meal, returning from his almsround, he went to the Great Forest for the day's abiding. Plunging into the Great Forest, he sat down at the root of a beluva sapling as his day's abiding.


Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở vườn Cây Bàng (Nigrodhàràma) Rồi Thế Tôn nhân một lỗi lầm, sau khi quở trách chúng Tỷ-kheo Tăng, đắp y vào buổi sáng, cầm y bát, đi vào thành Kapilavatthu để khất thực.
Đi khất thực ở Kapilavatthu xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, Thế Tôn đi đến Mahàvana (Đại Lâm) để nghỉ buổi trưa. Sau khi đi sâu vào rừng Mahàvana, Ngài ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây veluvalatthikà.

 

Then, as he was alone in seclusion, this line of thought arose in his awareness:
-"I have turned away the community of monks. But here there are monks who are new — not long gone forth, only recently come to this Dhamma & discipline. If they do not see me, there may be alteration in them, there may be change. Just as when a young calf does not see its mother, there may be alteration in it, there may be change; in the same way, there are monks who are new — not long gone forth, only recently come to this Dhamma & discipline. If they do not see me, there may be alteration in them, there may be change. Just as when young seedlings don't get water, there may be alteration in them, there may be change; in the same way, there are monks who are new — not long gone forth, only recently come to this Dhamma & discipline. If they do not see me, there may be alteration in them, there may be change. What if I were to aid the community of monks as I did before?"


Trong khi Thế Tôn độc cư Thiền tịnh, tư tưởng như sau được khởi lên:
"Chúng Tỷ-kheo đă được Ta làm cho vững mạnh. Nhưng ở đây có một số tân Tỷ-kheo, xuất gia không bao lâu, mới đến trong Pháp Luật này. Nếu họ không thấy Ta, họ có thể đổi khác, biến đổi. Như con bê, nếu không thấy ḅ mẹ, có thể thay đổi, đổi khác. Cũng vậy, ở đây có một số tân Tỷ-kheo, xuất gia không bao lâu, mới đến trong Pháp Luật này. Nếu họ không thấy Ta, họ có thể đổi khác, biến đổi. Ví như những hột giống non, nếu không có nước có thể đổi khác, biến đổi. Cũng vậy, ở đây có một số tân Tỷ-kheo, xuất gia không được bao lâu, mới đến trong Pháp Luật này. Nếu họ không thấy Ta, họ có thể đổi khác, biến đổi. Như trước đây chúng Tỷ-kheo đă được Ta giúp đỡ, cũng vậy, nay Ta hăy giúp đỡ cho chúng Tỷ-kheo!"

 

Then Brahma Sahampati — having known with his own awareness the line of thinking in the Blessed One's awareness — just as a strong man might extend his flexed arm or flex his extended arm, disappeared from the Brahma-world and reappeared in front of the Blessed One.
Arranging his upper robe over one shoulder, he knelt down with his right knee on the ground, saluted the Blessed One with his hands before his heart, and said to him:
-"So it is, O Blessed One! So it is, O One Well-gone! The Blessed One has turned away the community of monks. But here there are monks who are new — not long gone forth, only recently come to this Dhamma & discipline. If they do not see the Blessed One, there may be alteration in them, there may be change. Just as when a young calf does not see its mother... Just as when young seedlings don't get water... in the same way, there are monks who are new — not long gone forth, only recently come to this Dhamma & discipline. If they do not see the Blessed One, there may be alteration in them, there may be change. Let the Blessed One delight in the community of monks! Let the Blessed One welcome the community of monks! Let the Blessed One aid the community of monks as he did before!"


Rồi Phạm thiên Sahampati, với tâm của ḿnh biết được tư niệm của Thế Tôn, như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại hay co lại cánh tay duỗi ra, cũng vậy, biến mất từ Phạm thiên giới, hiện ra trước mặt Thế Tôn.
Rồi Phạm thiên Sahampati, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng đến Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:
- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Bạch Thế Tôn, chúng Tỷ-kheo đă được Thế Tôn làm cho vững mạnh. Nhưng ở đây có một số tân Tỷ-kheo, xuất gia không bao lâu, mới đến trong Pháp Luật này. Nếu họ không thấy Thế Tôn, họ có thể đổi khác, biến đổi. Như con bê, nếu không thấy ḅ mẹ có thể đổi khác, biến đổi. Cũng vậy, ở đây có một số tân Tỷ-kheo, xuất gia không bao lâu, mới đến trong Pháp Luật này. Nếu họ không thấy Thế Tôn, họ có thể đổi khác, biến đổi. Ví như những hạt giống non, nếu không có nước, có thể đổi khác, biến đổi. Cũng vậy, ở đây có một số tân Tỷ-kheo, xuất gia không bao lâu, mới đến trong Pháp Luật này. Nếu họ không thấy Thế Tôn, họ có thể đổi khác, biến đổi. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hăy làm cho chúng Tỷ-kheo hoan hỷ. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hăy thuyết giảng cho chúng Tỷ-kheo như trước đây chúng Tỷ-kheo đă được Thế Tôn giúp đỡ, cũng vậy, nay Thế Tôn hăy giúp đỡ cho chúng Tỷ-kheo!

 


The Blessed One acquiesced with silence.
Then Brahma Sahampati, sensing the Blessed One's acquiescence, bowed down to the Blessed One and, after circumambulating him, disappeared right there.


Thế Tôn im lặng nhận lời.
Rồi Phạm thiên Sahampati, sau khi biết Thế Tôn đă nhận lời, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ.

 

Then the Blessed One, emerging from seclusion in the evening, went to the Banyan Park. On arrival he sat down on a seat made ready. After he had sat down he worked a psychic feat such that the monks went to him contritely, in ones and twos. On arrival, they bowed down to him and sat to one side. As they were sitting there the Blessed One said to them,
-"Monks, this is the lowliest form of livelihood, that of an almsgoer. A term of abuse in the world is, 'You go about as an almsgoer with a bowl in your hand!' And yet sons of good family take up [this livelihood] with compelling reason, in dependence on a compelling reason — not coerced by kings nor coerced by thieves nor from debt nor from fear nor to earn a livelihood, but [with the thought]: 'I am oppressed with birth, aging, & death, with sorrows, lamentations pains, distresses, & despairs. I am oppressed with stress, overcome with stress. Perhaps an ending of this entire mass of suffering & stress might be found!'


Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến vườn Cây Bàng, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ ngồi đă soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nghĩ rằng: "Ta hăy thị hiện thần thông một cách khiến cho các vị Tỷ-kheo ấy đến Ta từng nhóm một hay hai người, với tâm có tội lỗi".
Và các Tỷ-kheo ấy đến Thế Tôn, từng nhóm một hay hai người, với tâm có tội lỗi; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo đang ngồi một bên:
- Này các Tỷ-kheo, đây là nghề sinh sống hèn hạ nhất, tức là nghề khất thực. Đây là một lời nguyền rủa trong đời, này các Tỷ-kheo, khi nói: "Ông, kẻ khất thực với bát trên bàn tay, Ông đi chỗ này, chỗ kia và đấy là nghề sinh sống". Này các Tỷ-kheo, điều mà các thiện gia nam tử chấp nhận là những vị sống v́ lư tưởng mục đích, duyên với lư tưởng mục đích; không phải v́ ma cưỡng ép, không phải v́ trộm cướp cưỡng ép, không phải v́ thiếu nợ, không phải v́ sợ hăi, không phải v́ không có nguồn sinh sống, mà với ư nghĩ: "Ta bị ch́m đắm trong sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo; bị ch́m đắm trong đau khổ, bị đoanh vây bởi đau khổ. Rất có thể, sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này được t́m ra".

 

And although this son of a good family has gone forth in this way, he is covetous, with strong passion for sensual desires, with a mind of ill will, of corrupt resolves, his mindfulness muddled, unalert, unconcentrated, his mind distracted, loose in his sense faculties. Just as a log from a funeral pyre, burning at both ends, smeared with excrement in the middle, fills no use as timber either in the village or in the wilderness: I speak of this person with this comparison. He has missed out on the enjoyments of the householder, and yet does not fulfill the goal of the contemplative life.


Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là thiện gia nam tử xuất gia. Vị ấy có tham dục đối với các dục vọng, tham ái cuồng nhiệt, tâm tư sân hận, tư niệm ô nhiễm, thất niệm, không tỉnh giác, không định tỉnh, tâm tán loạn, các căn không chế ngự. Ví như, này các Tỷ-kheo, một que củi từ chỗ hỏa táng, cả hai đầu đều cháy, ở giữa lại dính phân, không được dùng làm củi trong làng, không được dùng làm củi trong rừng. Dùng ví dụ ấy, Ta tả cho các Ông con người ấy, đă mất cả nhà và tài sản, lại không làm viên măn mục đích của Sa-môn hạnh.

 

"Monks, there are these three types of unskillful thinking: thinking of sensuality, thinking of ill will, thinking of harm. These three types of sensual thinking cease without remainder in one who dwells with his mind well established in the four frames of reference or who develops the themeless concentration.1This is reason enough, monks, to develop the themeless concentration. The themeless concentration, when developed & pursued, is of great fruit, great benefit.


Này các Tỷ-kheo, có ba bất thiện tầm này: dục tầm, sân tầm, hại tầm. Và này các Tỷ-kheo, ba bất thiện tầm này được đoạn diệt không có dư tàn, đối với vị nào tâm đă khéo an trú vào bốn Niệm xứ hay tu tập vô tướng Thiền định.
Này các Tỷ-kheo, hăy khéo tu tập vô tướng Thiền định. Này các Tỷ-kheo, vô tướng Thiền định được tu tập, làm cho tăng thịnh, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn.

 

Monks, there are these two views: the view of becoming and the view of non-becoming. There the instructed disciple of the noble ones considers thus: 'Is there anything in the world to which I could cling without being blameworthy?'
He discerns: 'There is nothing in the world to which I could cling without being blameworthy.' He discerns: 'In clinging, I would be clinging just to form. In clinging, I would be clinging just to feeling... perception... fabrications. In clinging, I would be clinging just to consciousness. From that clinging of mine as a requisite condition would come becoming. From becoming as a requisite condition, birth. From birth as a requisite condition, then aging, illness, & death, sorrow, lamentation pain, distress, & despair would come into play. Thus would be the origination of this entire mass of suffering & stress.'


Này các Tỷ-kheo, có hai kiến này: hữu kiến, phi hữu kiến. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Có cái ǵ ở trong đời, ta chấp trước mà không có phạm tội?"
Và vị ấy biết: "Không có cái ǵ ở trong đời ta chấp trước mà không có phạm tội". Nếu ta chấp thủ sự chấp thủ sắc... thọ... tưởng... các hành... Nếu ta chấp thủ sự chấp thủ thức, do duyên chấp thủ, hữu trở thành của ta. Do duyên hữu, có sanh. Do sanh, có già chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này

 

-What do you think, monks: Is form constant or inconstant?"
-Inconstant, lord."
-And is that which is inconstant easeful or stressful?"
-Stressful, lord."
-And is it proper to regard what is inconstant, stressful, subject to change as: 'This is mine. This is my self. This is what I am'?"
-No, lord."


Các ông nghĩ thế nào, này các Tỷ kheo, sắc là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lư chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngă của tôi"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.

 

-Is feeling constant or inconstant?"
-Inconstant, lord."...
-Is perception constant or inconstant?"
-Inconstant, lord."...
-Are fabrications constant or inconstant?"
-Inconstant, lord."...


- "Thọ là thường hay vô thường?"
- "Là vô thường, bạch Thế Tôn."
-" Tưởng là thường hay vô thường?"
- "Là vô thường, bạch Thế Tôn."
- "Hành là thường hay vô thường?"
- "Là vô thường, bạch Thế Tôn."

 

-Is consciousness constant or inconstant?
-Inconstant, lord."
-And is that which is inconstant easeful or stressful?"
-Stressful, lord."
-And is it proper to regard what is inconstant, stressful, subject to change as: 'This is mine. This is my self. This is what I am'?"
-"No, lord."


-"Thức là thường hay vô thường?"
- "Là vô thường, bạch Thế Tôn."
- "Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc?"
- "Là khổ, bạch Thế Tôn."
- "Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lư chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngă của tôi"?
- "Thưa không, bạch Thế Tôn."

 

Thus, monks, any form whatsoever that is past, future, or present; internal or external; blatant or subtle; common or sublime; far or near: every form is to be seen as it actually is with right discernment as: 'This is not mine. This is not my self. This is not what I am.'


Do vậy, này các Tỷ kheo , phàm có sắc ǵ thuộc quá khứ, vị lai, hoặc hiện tại; hoặc liệt hay thắng; hoặc nội hay ngoại,; hoặc thô hay tế; xa hay gần: Phàm sắc phải được thấy như chơn: " Không phải là ta, không phải của ta, không phải tự ngă của ta."


-Any feeling whatsoever...
-Any perception whatsoever...
-Any fabrications whatsoever...


-Phàm xúc nào,.....
-Phàm tưởng nào, ....
-Phàm các hành .....

 

'Any consciousness whatsoever that is past, future, or present; internal or external; blatant or subtle; common or sublime; far or near: every consciousness is to be seen as it actually is with right discernment as: "This is not mine. This is not my self. This is not what I am."


Phàm có thức ǵ thuộc quá khứ, vị lai, hoặc hiện tại; hoặc liệt hay thắng; hoặc nội hay ngoại; hoặc thô hay tế; xa hay gần. Phàm thức phải được thấy như chơn: " Không phải là ta, không phải của ta, không phải tự ngă của ta."

 

Seeing thus, the instructed disciple of the noble ones grows disenchanted with form, disenchanted with feeling, disenchanted with perception, disenchanted with fabrications, disenchanted with consciousness. Through disenchantment, he becomes dispassionate. Through dispassion, he is fully released. With full release, there is the knowledge, 'Fully released.' He discerns that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.


Do thấy vậy, vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly sắc, yếm ly thọ, yếm ly tưởng, yếm ly các hành, yếm ly thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết : "Ta đă được giải thoát ". Và vị ấy biết : "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, các việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này nữa".

 

Notes

1. See MN 121.

See also Iti 91.


 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang kế | trở về đầu trang | Home page |